MÔ HÌNH TỔ HÒA GIẢI 5 TỐT
Tổ chức thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở hiện nay
góp phần giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa tội phạm
và vi phạm pháp luật:
Phát huy vai trò
các tổ hòa giải, các tổ chức chính trị xã hội kịp thời phát hiện, giải quyết
các mâu thuẫn, xung đột xã hội, nhất là liên quan đến vấn đề đất đai, môi
trường, thực hiện chế độ chính sách, quan hệ lao động, không đề phát sinh vụ
việc phức tạp, hình thành “điểm nóng” về an ninh, trật tự; xây dựng “thế trận
lòng dân” là một trong những nhiệm vụ, giải pháp nhằm chủ động phòng ngừa tội
phạm, kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ; phòng
ngừa từ sớm, từ xa, từ cơ sở là chính, lấy cơ sở là địa bàn trọng tâm nhằm giảm
bền vững các loại tội phạm và giảm tỷ lệ phạm tội lần đầu trong Quyết định số
1944/QĐ-TTg ngày 18/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình thực
hiện Kết luận số 13-KL/TW ngày 16/8/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện
Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị (Khóa X) về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và
Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến
năm 2030.
Vai trò, ý nghĩa của công tác hòa giải ở cơ
sở:
Hòa
giải ở cơ sở là phương thức giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột xã
hội do các bên mâu thuẫn, tranh chấp thực hiện với sự hướng dẫn, giúp
đỡ của hòa giải viên ở cơ sở. Ở Việt Nam, hòa giải ở cơ sở hình thành
rất sớm (ngay từ thời kỳ phong kiến), được củng cố và phát triển từ thế kỷ này
sang thế kỷ khác. Đến nay, Đảng, Nhà nước tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo để không ngừng thúc đẩy công tác hòa giải ở cơ sở ngày càng hoạt động
hiệu quả đáp ứng yêu cầu quản lý đất nước. Hòa giải ở cơ sở có vai trò, ý nghĩa
quan trọng trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta.
Thứ
nhất, hòa giải ở cơ sở là một phương thức giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn hiệu
quả, giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, kịp thời và triệt
để, không để mâu thuẫn phát triển thành “điểm nóng”. Hòa giải viên
ở cơ sở là người sinh sống tại địa bàn dân cư nên họ có điều kiện phát hiện sớm
và nắm bắt được nội dung vụ việc, tranh chấp. Ngay khi vụ việc vừa phát sinh,
hòa giải viên ở cơ sở biết được sự việc, có mặt kịp thời để can ngăn sự việc
tiến triển theo chiều hướng xấu, dàn xếp ngay, làm cho sự việc lắng xuống, các
bên bình tĩnh lại và từ đó hướng dẫn, giúp đỡ các bên thỏa thuận cách giải
quyết xung đột bằng con đường hòa bình, hợp tác, bảo đảm quyền lợi của mỗi bên.
Thực tiễn hoạt động hòa giải ở cơ sở cho thấy, có những vụ việc nếu không được
hòa giải kịp thời thì sự việc bị dồn nén lâu ngày, âm ỉ, đến khi bùng phát trở
nên nghiêm trọng, thậm chí thành hành vi vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm
sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của các bên. Hòa giải ở cơ sở sẽ kịp
thời dập tắt xung đột, không để mâu thuẫn trở nên gay gắt, không vượt qua giới
hạn, giúp cho các bên tránh được việc giải quyết xung đột bằng bạo lực.
Hòa
giải ở cơ sở giải quyết tận “gốc” mâu thuẫn, tranh chấp. Kết quả hòa giải ở cơ
sở sẽ không có bên thắng, bên thua, mà cả hai bên đều thắng, đều thỏa mãn được
những mong muốn nhất định của mình (có khi chỉ là một lời xin lỗi đã hóa giải
được mâu thuẫn). Hòa giải viên không chỉ dựa trên các quy định của pháp luật mà
chủ yếu dựa vào những chuẩn mực đạo đức, văn hóa, ứng xử, phong tục, tập
quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc để tác động tới tâm tư, tình cảm của
các bên; khơi dậy, phát huy trong họ những suy nghĩ, tình cảm tích cực, hướng
họ tìm về cội nguồn, những giá trị nhân văn để họ tự điều chỉnh
suy nghĩ và hành vi của mình, giải quyết mâu thuẫn tranh chấp, khôi
phục duy trì, củng cố tình cảm, quan hệ đoàn kết trong gia đình, dòng
họ, làng xóm, cộng đồng và xã hội. Các bên sẵn sàng bỏ qua những thua
thiệt có thể có, ai cũng cảm thấy hài lòng, vui vẻ, thoải mái bởi
không có bên được, bên thua mà tất cả đều thắng. Sau khi vượt qua sóng
gió, thách thức, các bên nhận ra cái đúng, cái sai, nhận ra các giá trị
đạo đức, giá trị văn hóa; mối quan hệ giữa người với người trở nên
bền chặt, nhân văn hơn trước vì vậy mâu thuẫn, tranh chấp được giải quyết
triệt để.
Phương
thức hòa giải ở cơ sở không chỉ được đề cao, coi trọng ở Việt Nam mà còn được
các quốc gia trên thế giới quan tâm, tạo điều kiện phát triển bởi tính ưu
việt so với việc giải quyết tranh chấp thông qua hệ thống hành chính, tư pháp
chính thống (giải quyết bởi cơ quan hành chính nhà nước hoặc xét xử bởi tòa
án). Do đó, hòa giải ở cơ sở ngày càng được khẳng định, củng cố và phát
triển thành một phương thức giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột xã
hội rộng rãi, góp phần quan trọng cho việc bảo đảm an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định để phát triển.
Thứ
hai, hòa giải ở cơ sở phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý xã
hội. Công tác hòa giải ở cơ sở thể hiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, thông qua đó nhân dân, xã hội trực tiếp tham gia quản lý mọi mặt đời
sống xã hội. Bằng hoạt động hòa giải ở cơ sở, các bên tranh chấp đã tự mình
giải quyết tranh chấp, xung đột trên cơ sở mong muốn, hài hòa lợi ích của các
bên. Hòa giải viên là người hoạt động vì lợi ích cộng đồng, họ không hướng tới
mục tiêu lợi nhuận; công việc của hòa giải viên là hàn gắn những mâu thuẫn nảy
sinh trong gia đình, dòng họ, tranh chấp giữa hàng xóm láng giềng với nhau; để
từ đó không cần đến sự can thiệp của Nhà nước đối với những công việc mà xã hội
có thể tự làm được. Điều này thể hiện cao quyền làm chủ của nhân dân, góp phần
thực hiện có hiệu quả Hiến pháp năm 2013.
Thứ
ba, hoạt động hòa giải ở cơ sở góp phần tích cực trong việc
hạn chế đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp, kéo dài. Trong cuộc
sống, sinh hoạt hằng ngày, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay dưới tác động mặt
trái của nền kinh tế thị trường, nhiều mâu thuẫn, xung đột nảy sinh giữa các
thành viên trong gia đình, các cá nhân, các hộ gia đình. Hòa giải ở cơ sở là
thiết chế giải quyết tranh chấp của cộng đồng, của xã hội.
Khi
mâu thuẫn đã được các bên tự thương lượng, thỏa thuận giải quyết với nhau, các
bên không còn bức xúc, không còn thắng – thua nên không kiện tụng, khiếu nại,
tố cáo. Do đó, ngăn ngừa phát sinh tội phạm, giữ gìn tình đoàn kết trong nội bộ
nhân dân, ổn định trật tự an toàn xã hội. Điều này góp phần tiết kiệm được thời
gian, công sức, tiền bạc của chính các bên tranh chấp, cũng như của các cơ quan
nhà nước như chính quyền địa phương, cơ quan tư pháp.
Thứ
tư, hoạt động hòa giải ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng đối với công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, góp phần trực tiếp tác động đến việc nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của nhân dân. Ở một góc độ nhất định, các hòa giải
viên có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật để các
bên hiểu về quyền và nghĩa vụ của mình. Các tranh chấp, vi phạm pháp luật thuộc
phạm vi hoà giải phát sinh từ nhiều mối quan hệ xã hội: Quan hệ gia đình; quan
hệ làng xóm, bạn bè, quan hệ tài sản,…Vì thế, khi tiến hành hòa giải, hòa giải
viên phải sử dụng kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật (pháp luật dân
sự, pháp luật hình sự, pháp luật đất đai, pháp luật hôn nhân và gia đình…) để
giải thích, phân tích, thuyết phục, hướng dẫn, giúp đỡ các bên đưa ra
phương án giải quyết hợp tình, hợp lý, hợp pháp, cùng chấp nhận
được. Thông qua hoạt động này, các bên tranh chấp và cả những người
xung quanh được cung cấp, củng cố, mở rộng kiến thức pháp luật về
nhiều lĩnh vực.
Thông
qua hoạt động hòa giải, hòa giải viên ở cơ sở thực hiện vai trò của một
“Tuyên truyền viên pháp luật”, thực sự góp phần tích cực vào việc
phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
ở cơ sở, giữ gìn kỷ cương xã hội, góp phần vào xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và thực hiện mục tiêu: Dân giàu, Nước mạnh, Dân chủ, Văn
minh.
Thứ
năm, hoạt động hòa giải ở cơ sở chính là một hình thức của công tác dân
vận. Hòa giải viên ở cơ sở là người gần dân, sát dân, hiểu được
tâm tính, hoàn cảnh, điều kiện của từng hộ dân, bằng kinh nghiệm của mình, họ
phân tích, giải thích cho các bên hiểu về những giá trị cốt lõi của truyền
thống đạo đức, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, để nâng cao nhận thức pháp luật và xây dựng ý thức thượng tôn pháp luật
trong Nhân dân, củng cố và nâng cao niềm tin của Nhân dân vào chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Từ đó, người dân hiểu mục
tiêu và con đường xây dựng đất nước mà Đảng đang thực hiện và sẽ cùng chung
sức, đồng lòng, ủng hộ những chủ trương đó, để xây dựng, phát triển quê hương,
đất nước giàu mạnh. Thông qua công tác hòa giải ở cơ sở, hòa giải viên nắm được
được tâm tư, nguyện vọng của dân, từ đó tham mưu lại cho chính quyền, cho Đảng
những giải pháp để xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp, “ý Đảng
– lòng Dân”, góp phần phát hiện, xử lý, hòa giải kịp thời các mâu
thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật tại cộng đồng cơ sở, qua đó góp
phần đáng kể phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, tội phạm, bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
Từ
những vai trò trên, có thể khẳng định hòa giải ở cơ sở là một truyền thống đạo
lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, nhằm giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn
kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng, mang đậm tính nhân văn, hoạt động vì
mọi người trên cơ sở đạo đức xã hội và nền tảng pháp luật. Thực hiện tốt công
tác hòa giải sẽ góp phần giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân,
phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật, giúp ổn định tình hình an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế ở địa phương.
Tiêu
chí “Tổ hòa giải 5 tốt”. Gồm 5 tiêu chí:
- Tiêu
chí 1: Phát hiện vụ việc kịp thời, tổ chức hòa giải tốt, đạt tỷ lệ hòa giải
thành 85% trở lên.
- Tiêu
chí 2: Phối hợp tốt giữa Ban công tác Mặt trận, các chi hội đoàn thể ở cơ
sở, các tổ hòa giải và tổ chức, cá nhân khác trong hoạt động hòa giải ở cơ sở.
- Tiêu
chí 3: Được cung cấp tài liệu liên quan đến hoạt động hòa giải; tham gia
đầy đủ các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật, bồi dưỡng, tập huấn hòa giải viên
tốt.
- Tiêu
chí 4: Được hỗ trợ kinh phí thực hiện công tác hòa giải đúng, kịp thời theo
quy định của pháp luật.
- Tiêu
chí 5: Định kỳ giao ban 06 tháng, hàng năm trao đổi kinh nghiệm hòa giải,
báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động hòa giải; ghi chép, quản lý sổ theo dõi
hoạt động hòa giải ở cơ sở theo đúng quy định.
Có
thể nói, việc triển khai mô hình “Tổ hòa giải 5 tốt” và gắn mô hình “Tổ hòa
giải 5 tốt” với tiêu chí đánh giá cũng như sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng
ủy, UBND xã trong công tác hòa giải đã giúp cho công tác hòa giải đi vào nề
nếp, bài bản; quá trình thực hiện công tác hòa giải đã có sự phối hợp chặt chẽ
giữa chính quyền, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, các tổ chức chính trị -
xã hội và Nhân dân, gắn kết được người dân và chính quyền trong công tác hòa
giải ở cơ sở, góp phần nâng cao tỷ lệ hòa giải thành, giảm mâu thuẫn trong cộng
đồng dân cư; khuyến khích chính quyền nhất là chính quyền cơ sở ở xóm quan tâm
hơn đến công tác hòa giải về kinh phí, góp phần giải quyết điểm nóng, ổn định
an ninh, chính trị trên địa bàn.
Thực
tiễn hoạt động hòa giải ở cơ sở cho thấy, có những vụ việc nếu không được phát
hiện sớm, hòa giải kịp thời, thì chỉ từ những mâu thuẫn, xích mích, tranh chấp
hết sức nhỏ, có khi chỉ là “con gà tức nhau tiếng gáy”, bất đồng về quan điểm
sống..., mà trở thành phức tạp, “cái sảy nảy cái ung”, làm cho tình hình trở
nên nghiêm trọng, gay gắt, xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự, sức khỏe, tính mạng
của các bên, gây mất trật tự công cộng, làm tổn hại đến thuần phong mỹ tục của
dân tộc, thậm chí từ tranh chấp dân sự chuyển thành vi phạm pháp luật, phạm tội
hình sự.
Nguồn sưu tầm: Phạm Hưng